Vấn đề chính trị Kinh_tế_Canada

Chênh lệch phát triển

Nền kinh tế Canada khác nhau rất nhiều giữa các vùng. Miền Trung Canada giữ truyền thống là động cơ kinh tế của Canada, trung tâm công nghiệp và là nơi sinh trú của hơn một nửa dân số đất nước. Những năm gần đây, người ta chứng kiến sự tăng trưởng nhanh chóng tại miền Tây Canada nhờ thương mại với Châu Á đã làm giàu cho British Columbia và tài nguyên dầu mỏ phong phú đã thúc đẩy kinh tế của AlbertaSaskatchewan phát triển.

Bốn tỉnh bang ở ven Đại Tây Dương, mặc dù một thời là trung tâm của hoạt động kinh tế, đã trải qua quá trình suy thoái cuối thế kỷ XIX và có truyền thống nghèo khó hơn đáng kể phần còn lại của Canada, đặc biệt là sau khi ngành đánh bắt cá sụp đổ. Những năm gần đây, người ta thấy các tỉnh bang này đã có những sự dịch chuyển đáng kể theo hướng đa dạng hoá, đặc biệt là dầu khí ở ngoài khơi đã bắt đầu được khai thác và đưa vào khu vực. Quebec cũng là vùng có truyền thống nghèo hơn mức bình quân ở Canada mặc dù không đến mức như các địa phương thuộc Đại Tây Dương. Trong những năm gần đây Newfoundland and Labrador đã bắt đầu cho thấy một thay đổi trong nền kinh tế của họ và được gọi là "con hổ Celtic của Canada" (so sánh với chuyển biến kinh tếIreland); nó cũng đã được gọi là "tiểu Alberta" do có nguồn dầu khí mới phát hiện được, mặc dù nhiều người trẻ ở Newfoundland di trú sang Alberta để tìm kiếm những việc làm mang lại thu nhập cao hơn.

Mối quan hệ với Hoa Kỳ

CanadaHoa Kỳ có quan hệ thương mại chặt chẽ với nhau. Thị trường việc làm của Canada tiếp tục trong tình trạng thuận lợi cùng với tình hình của kinh tế Hoa Kỳ. Tỷ lệ thất nghiệp hồi tháng 12 năm 2006 đạt mức thấp nhất trong 30 năm qua và là năm thứ 14 liên tục tăng trưởng.[39] Những bất đồng về thuế quan, những hành động quân sự đa phương và tranh cãi về các vấn đề pháp lý của Canada chẳng hạn như hôn nhân đồng giới, quyền lợi người khuyết tật, phân biệt chủng tộc, luật di trú và cần sa hợp pháp đã làm cho quan hệ giữa hai nước có những căng thẳng nhất định.

Mặc dù có những khác biệt nêu trên, Hoa Kỳ vẫn là đối tác thương mại lớn nhất củaCanada, với kim ngạch bình quân hàng ngày lên tới 1,7 tỷ CAD[40] vào năm 2005. Có tới 81% xuất khẩu của Canada là sang Hoa Kỳ và 67% của nhập khẩu của Canada là từ Hoa Kỳ.[41] Thương mại với Canada đã chiếm 23% xuất khẩu và 17% nhập khẩu của Hoa Kỳ.[42] Năm 2005, thương mại của Hoa Kỳ với Canada nhiều hơn thương mại của Hoa Kỳ với toàn Liên Minh châu Âu gộp lại[43], và cũng lớn hơn hai lần thương mại giữa Hoa Kỳ với tất cả các quốc gia Mỹ Latin gộp lại[44]. Chỉ xét riêng thương mại hai chiều thực hiện qua Cầu Ambassador giữa MichiganOntario đã bằng tất cả xuất khẩu của Hoa Kỳ tới Nhật Bản. Tầm quan trọng của Canada với Hoa Kỳ không chỉ dừng ở các bang có biên giới chung giữa hai nước. Canada là thị trường xuất khẩu hàng đầu của 35 / 50 tiểu bang Hoa Kỳ, và là nước ngoài cung cấp năng lượng nhiều nhất cho Hoa Kỳ.

Thương mại song phương tăng 52% trong thời kỳ từ năm 1989 khi Hiệp định thương mại tự do Hoa Kỳ-Canada (FTA) có hiệu lực đến năm 1994 khi Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) thay thế FTA trên.[cần dẫn nguồn] Kể từ đó, thương mại đã tăng 40%. NAFTA tiếp tục phát huy kết quả của FTA trong việc giảm dần các rào cản thương mại và thiết lập các quy tắc thương mại theo thỏa thuận. Nó cũng giải quyết một số trở ngại tồn tại kéo dài và tự do hóa các quy tắc ở một số lĩnh vực, bao gồm cả nông nghiệp, dịch vụ, năng lượng, dịch vụ tài chính, đầu tư và mua sắm của chính phủ. NAFTA tạo thành khu vực thương mại lớn nhất thế giới, với trên 406 triệu dân của ba nước Bắc Mỹ.

Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu nông sản lớn nhất của Canada, chiếm hơn một nửa thực phẩm xuất khẩu của Canada.[45] Tương tự, Canada là thị trường xuất khẩu nông sản lớn nhất của Hoa Kỳ, với gần 20% số thực phẩm xuuất khẩu Hoa Kỳ là tới nước hàng xóm phía Bắc. Gần hai phần ba sản phẩm lâm nghiệp của Canada, bao gồm cả bột giấy và giấy, được xuất khẩu sangHoa Kỳ; 72% tổng số giấy in báo của Canada sản xuất ra cũng đã được xuất khẩu vào Hoa Kỳ.

Với kim ngạch 73,6 tỷ dollar Mỹ trong năm 2004, Canada trở thành bạn hàng năng lượng lớn nhất của Hoa Kỳ trong mối quan hệ thương mại, và chiếm hầu hết kim ngạch xuất khẩu năng lượng trị giá 66,7 tỷ dollar của Canada. Các mặt hàng chính là dầu, khí đốt tự nhiênđiện. Canada là nhà cung cấp dầu lớn nhất cho Hoa Kỳ và đứng thứ năm trên thế giới về sản xuất năng lượng. Canada cung cấp đáp ứng khoảng 16% nhu cầu nhập khẩu dầu của Hoa Kỳ và 14% tiêu thụ khí tự nhiên của nước này. Mạng lưới điện quốc gia của CanadaHoa Kỳđược liên kết với nhau và cả hai quốc gia chia sẻ các thiết bị thủy điện biên giới phía Tây.

Trong khi hầu hết các doanh nghiệp Hoa Kỳ-Canada thông suốt, đôi khi có những tranh chấp thương mại song phương, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệpvăn hóa. Thông thường những vấn đề này đã giải quyết được thông qua các diễn đàn song phương tư vấn hoặc giới thiệu đến Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), hoặc NAFTA giải quyết tranh chấp. Trong tháng 5 năm 1999, Hoa Kỳ và chính phủ Canada đã thương lượng một thỏa thuận trên tạp chí cung cấp tăng quyền truy cập cho ngành công nghiệp Hoa Kỳ xuất bản vào thị trường Canada.

Hoa KỳCanada cũng có một số các vấn đề liên quan đến thủy sản đã giải quyết. Bởi thỏa thuận thông thường, hai nước đã gửi một báo cáo về vịnh Maine là ranh giới tranh chấp lên Tòa án Tư pháp Quốc tế năm 1981; cả hai được chấp nhận của Toà án vào 12 tháng 10 năm 1984 nguyên tắc chia các ranh giới lãnh thổ biển. Một vấn đề hiện nay giữa Hoa KỳCanada tiếp tục là chế biến gỗ mềm, như Hoa Kỳ là Canada alleges oan subsidizes các ngành công nghiệp lâm nghiệp.

Trong năm 1990, Hoa KỳCanada đã ký một thỏa thuận song phương về thuỷ sản, đã phục vụ cho hoạt động ngăn chặn đánh bắt cá bất hợp pháp và giảm nguy cơ bị thương trong quá trình thực thi cứu giúp sự cố thủy sản.Hoa KỳCanada đã ký một thoả thuận cá hồi Thái Bình Dương trong tháng 6 năm 1999 là ổn định qua việc triển khai thực hiện những sự khác biệt của Thái Bình Dương vào năm 1985 Hiệp ước cá hồi cho thập kỷ tới.

CanadaHoa Kỳ đã ký một thỏa thuận hàng không trong thời gian Bill Clinton thăm Canada vào tháng 2 năm 1995, và giao thông hàng không giữa hai nước đã tăng lên đáng kể như là một kết quả.Hai nước cũng chia sẻ trong hoạt động của St Lawrence Seaway, kết nối các Great Lakes đến Đại Tây Dương.

Hoa Kỳ là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất của Canada; vào cuối năm 1999, các cổ phiếu của Hoa Kỳ đầu tư trực tiếp đã được ước tính $ 116,7 tỷ đồng, hoặc về 72% của tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Canada. Hoa Kỳ đầu tư chủ yếu ở Canada của mỏ và các ngành công nghiệp nấu chảy kim loại,xăng dầu, hóa chất, sản xuất máy móc và thiết bị giao thông vận tải, và tài chính.Canada là nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ ba tại Hoa Kỳ. Vào cuối năm 1999, các cổ phiếu của Canada đầu tư trực tiếp tại Hoa Kỳ đã được ước tính $ 90,4 tỷ đồng. Canada đầu tư tại Hoa Kỳ là tập trung vào sản xuất, kinh doanh bán buôn, bất động sản, dầu khí, tài chính, và bảo hiểm và các dịch vụ khác.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Kinh_tế_Canada http://www.censusdata.abs.gov.au/ABSNavigation/pre... http://ats.agr.ca/stats/4141_e.pdf http://www.cfa-fca.ca/pages/index.php?main_id=25 http://www.ec.gc.ca/soer-ree/English/Indicators/Is... http://www.fin.gc.ca/afr-rfa/2012/report-rapport-e... http://www.fin.gc.ca/ec2006/ec/eca1e.html http://www.ic.gc.ca/eic/site/cis-sic.nsf/eng/h_000... http://www.international.gc.ca/trade-agreements-ac... http://www.nrcan.gc.ca/statistics/energy/default.h... http://www.parl.gc.ca/information/library/PRBpubs/...